[Tả Đặng] Cai thuốc
*Thiết lập Tả Hàng lớn hơn Đặng Giai Hâm một tuổi
Cai…?
—
“Phù!”.
Đã lâu rồi tôi không động vào thuốc lá. Tôi dừng dùng thứ này sau năm lớp Mười Hai, khi kết thúc kỳ thi chuyển cấp từ cấp ba lên đại học. Khoảng đấy. Đương nhiên, lý do không gì ngoài việc tôi hết cơ hội gặp đối tượng mình yêu đơn phương suốt những năm còn mòn mông mài ghế nhà trường. Người mà tôi dùng thuốc lá để lôi kéo sự chú ý về đã chẳng còn quay lại gặp tôi vì bất kỳ lý do nào nữa, thành ra tôi cũng chẳng còn mặn mà hút hít. Đến nỗi lũ “bạn xấu” còn chao ôi tiếc thay. Tiếc thay thiếu mất một con nghiện ra ra vào vào trại cai nghiện như cơm bữa cùng bọn chúng.
Học hết lớp cuối cấp ba, tôi không vội học lên đại học như bao người, thay vào đó, dành thời gian một năm rưỡi để tìm hiểu bản thân. Ít nhất, đó là lời cả nhà tôi nhất trí đồng lòng nói với người ngoài.
Thực tế, trong thời gian ấy, họ đưa tôi đi chữa bệnh.
Thứ bệnh mang tên “đồng tính luyến ái”.
Bởi vì người tôi yêu năm ấy là con trai, tôi bị mặc định là mắc bệnh nan y không thể chữa khỏi.
Bố tôi đập phá đồ trong nhà, gào thét những điều như nhà tôi vô phúc mới sinh ra đứa con mắc bệnh như tôi, mẹ tôi nhăn mày ủ dột tính toán từng món đồ dùng để “chữa bệnh” cho tôi, bà tôi tức phát ngất, miệng luôn than tại sao thứ bệnh đó lại lây đến đứa cháu đích tôn trong nhà là tôi. Cả nhà tôi lâm vào cảnh lầm than, chỉ một mình tôi cảm thấy nực cười.
Tôi muốn trở thành chính mình, yêu người tôi muốn yêu, cũng bị nói là sai trái.
“Người ấy… của chú… là ai?”.
Lần đầu tiên tôi hút thuốc lá là vào năm lớp Mười Một.
Năm ấy, vì để ra vẻ với anh, đúng hơn là muốn thu hút sự chú ý của anh, tôi tập tành động vào thứ thảo mộc cuốn gói. Vị đắng ngắt, chất dẫn truyền thần kinh xộc thẳng lên não, buồng phổi ngập ngụa trong khói thuốc - không phải một trải nghiệm tuyệt vời cho mấy. Nhưng tập dần thì cũng quen - tôi tập mãi cho đến khi được gặp lại anh.
Buổi trưa, mùa đông, chuông báo nghỉ trưa réo inh ỏi. Theo thói quen, tôi rảo bước quanh dãy phòng đang thi công, lẻn vào góc nhỏ bên cạnh lối vào phòng vệ sinh. Đây là nơi anh thường tụ tập cùng hội bạn bè của anh. Tôi nhớ ngày ấy bên cạnh anh thường xuất hiện bốn người, một người lớn tuổi hơn anh nhưng sinh vào cuối năm, ba người kém tuổi hơn anh hẳn hai lớp.
Mãi đến sau này tôi mới biết, bình thường anh chẳng thích chơi cùng người kém tuổi hơn anh, ba người kia là con cái của bạn bố mẹ anh nên mới hay đi chung, chỉ có mỗi tôi là người lạ tự dưng nhảy bổ vào cuộc sống của anh.
Lý do tôi thích anh cũng kỳ lạ chẳng kém cách tôi xuất hiện trong cuộc đời anh. Tôi mê con diều của anh, chiếc diều bị đứt dây trôi lạc theo chiều gió, chiếc diều làm bằng vải bạt và thứ nước màu mốc mùi dầu xăng, chiếc diều anh tự tay chuẩn bị. Hôm đó, đứa trẻ luôn dõi theo những con diều phấp phới trên bầu trời là tôi gieo hy vọng vào cánh diều lạc đàn ấy. Đến khi nó biến mất hút vào luồng gió nồng nỗng, tôi vẫn không thể quên cánh diều ấy.
Tôi càng không thể quên anh.
“Tả Hàng”.
Tôi lấy cớ muốn học làm diều để làm quen với anh.
Làm một con diều nghe thì đơn giản, giống như cách người ta bắt đầu thích một ai đó, chỉ cần vài thứ tưởng như vụn vặt: một thanh tre thẳng làm trục sống lưng, một thanh khác uốn cong làm cánh, một tờ giấy mỏng dính và đoạn dây đủ dài để buộc vào tay. Mọi thứ đều phải đúng tỉ lệ: cánh quá cong thì không bay nổi, sống lưng quá mềm thì gió tạt một cái là gãy. Khi dán giấy lên khung, phải cẩn thận miết từng đường mép, kẻo chỉ một kẽ hở nhỏ thôi cũng đủ để gió xuyên qua, làm cả con diều chao đảo. Người ta cứ nghĩ diều muốn bay là bay, nhưng không, nó cần một làn gió đúng lúc, cần người thả đủ kiên nhẫn.
Tình cảm đơn phương cũng vậy. Mình bỏ công vun đắp, chắp nối, nâng niu từng chút một, tưởng rằng chỉ cần làm đủ tốt thì người kia sẽ để mắt tới. Nhưng có những con diều, dù mình buộc dây cẩn thận đến đâu, dù chờ cả buổi chiều lộng gió, nó vẫn không chịu bay. Không phải vì nó hỏng, mà vì nó không thuộc về bầu trời mình đang đứng dưới.
Không phải ai trong số những người bạn quanh anh cũng chào đón tôi.
Có lần, một trong ba người hay đi cùng anh - thằng thấp nhất, cái thằng hay làm trò con bò nhất lớp - quay sang hỏi tôi: “Mày theo tụi tao hoài không chán hả?”.
Tôi chưa kịp trả lời, anh đã liếc thằng đó một cái. Anh không nói lời nào, không to tiếng, cũng chẳng bênh tôi ra mặt, chỉ liếc đúng một cái rồi quay sang hỏi tôi một chuyện chẳng liên quan: “Hôm qua mày thả diều được chưa?”.
Tôi gật đầu, không dám nhìn thẳng vào mắt anh. Tôi cũng chẳng rõ anh hỏi thật hay chỉ muốn đánh lạc hướng thằng kia, nhưng tôi vẫn nhớ mình đã gật đầu như thể có thật một con diều nào đó tồn tại ngoài đời chứ không chỉ trong trí nhớ.
Tôi hiểu lúc đó anh không hề thích tôi. Làm gì có lý do nào để thích một đứa cứ rình rập theo sau, không giỏi giang, không nổi bật, chẳng cùng vòng tròn quen biết. Nhưng tôi vẫn cố tình hiểu nhầm. Tôi bấu víu vào mọi chút tử tế vụn vặt anh ném xuống như thể chúng là dấu hiệu. Một cái liếc mắt, một câu hỏi bâng quơ, một cái gật đầu khi tôi chìa ra gói kẹo cao su. Tôi lấy hết chúng chắp lại thành một câu chuyện tình đơn phương vĩ đại trong đầu mình.
Bởi vì, nếu tôi không nghĩ thế, thì tôi lấy gì để mà hy vọng?
Tôi giữ thói quen hút thuốc trong suốt năm lớp Mười Một vì nghĩ rằng - một cách ngây thơ - biết đâu một ngày anh cũng sẽ tò mò nhìn tôi lâu hơn một chút, bắt gặp tôi trong làn khói và nói một câu gì đó đại loại như “đừng hút nữa, khói vào mắt tao”, thế là tôi có cớ để đứng gần anh hơn. Thật ngốc, nhưng tôi lúc đó cần cái lý do ấy để thấy mình tồn tại trong mắt người khác.
Ngẫm lại, tôi của năm ấy, cậu choai choai cố gồng mình ra vẻ già đời, chẳng khác nào một trò hề.
Nhưng, tôi không hối hận. Nếu được cho cơ hội làm lại, tôi vẫn sẽ thử hút thuốc, sẽ thử tiếp cận anh, sẽ thử chen chân vào cuộc sống của anh.
—
Tôi chưa bao giờ nghĩ hút thuốc là ngầu. Những lần tôi động vào chất kích thích này đều chẳng vui vẻ. Lúc thì lạc lõng, gồng mình cố đuổi theo sự yêu thương của bố mẹ - những người sau này tôi mới biết chẳng phải người dứt ruột sinh ra mình; lúc thì khốn đốn tìm kiếm một chút tình cảm từ gia đình bố mẹ đẻ vốn đã méo mó. Có khi lại trống rỗng vì nghĩ cuộc đời của mình có lẽ cũng chỉ quanh quẩn mãi ở xóm nhỏ đầy ắp tệ nạn, không lối thoát. Và cuối cùng là đau đớn khi chẳng còn cách nào khác để giải quyết nỗi tức bực ngoài hút hít.
Từng thứ việc đó, từng mảnh một, lặng lẽ chất chồng rồi đẩy tôi vào vực sâu không đáy.
Người ta bảo khi bạn nhìn vào vực sâu, vực sâu cũng đang nhìn lại bạn. Nhưng nếu thân đã nhầy nhụa trong đó rồi, thì biết đi đâu để tìm ánh sáng soi đường?
Tôi từng nghĩ mình sẽ không sống quá ba mươi tuổi. Không phải vì tôi muốn chết, mà bởi tôi không nhìn thấy nổi một tương lai nào đáng để sống. Khi tâm trí mệt mỏi đến mức mọi giấc ngủ đều giống như một cuộc trốn chạy, thì việc tỉnh lại mới là cơn ác mộng thật sự. Tôi từng ngồi bó gối giữa đêm trong một căn phòng tối hôi mùi mốc và khói, lắng nghe tiếng kim đồng hồ tích tắc như thể đang đếm ngược thời gian tôi còn hiện diện. Một điếu thuốc, rồi một điếu nữa... không phải vì nghiện, mà vì chẳng biết làm gì khác để khiến mình tạm quên.
Và tôi đã nghĩ, nếu không có gì giữ mình lại, thì rơi xuống cũng chẳng sao.
May mắn thay, tôi gặp được em.
Đối với tôi, điều vui vẻ duy nhất liên quan đến hút thuốc chỉ có em.
Đặng Giai Hâm.
Em xuất hiện vào đúng thời điểm tôi chẳng thiết tha gì nữa. Khi cơn trống rỗng ăn mòn tâm hồn, biến một khoảnh tim vốn đã cằn cỗi càng trở nên khánh kiệt. Khi tôi không còn một ai, không còn một nơi chốn, không còn bất kỳ lý do nào để tiếp tục tồn tại.
Hôm đó, tôi ngồi ở một góc công viên cũ, nơi đám thanh niên thường tụ tập vào buổi chiều, tay cầm điếu thuốc đã tắt ngúm từ lâu, miệng vẫn giả vờ rít lấy rít để như đang làm một điều gì quan trọng. Tôi không biết em đến từ đâu, càng không biết vì sao em lại bước thẳng tới chỗ tôi giữa một buổi chiều lặng gió. Tôi chỉ nhớ ánh mắt em khi ấy: không phán xét, không thương hại, giống như một cái chạm dịu dàng từ thế giới đang ngầm thừa nhận rằng tôi vẫn đang tồn tại.
Không phải ngay lần đầu gặp, nhưng lần nào em cũng lao thẳng vào lòng tôi, trao cho tôi một cái ôm nồng nàn mà ấm áp.
Tôi từng nghĩ mình sẽ đẩy em ra, như tôi vẫn làm với bất kỳ ai lại gần. Nhưng tay tôi khi ấy, không hiểu vì sao, lại khẽ siết lấy bờ vai em, như thể chính tôi cũng đã đợi khoảnh khắc đó từ rất lâu. Em không hỏi tên tôi, không hỏi lý do tôi ngồi đó. Em chỉ chìa ra một bao thuốc nhàu nát và một nụ cười kỳ lạ, nửa ngang tàng, nửa bao dung.
Kể từ giây phút đó, thuốc lá không còn là thứ tôi dùng để chạy trốn khỏi đời, mà trở thành tín hiệu gọi em lại gần. Lửa châm thuốc - điều từng là cách tôi đốt đi từng lớp buồn bã - giờ đây lại là cách em khẽ chạm vào tôi. Không qua lời nói, không bằng hành động, mà chỉ bằng một tia lửa ấm.
Em lại gần, cùng tôi châm cho nhau mồi lửa lập lòe.
Ngày hôm ấy, tôi chẳng còn nhớ chính xác là ngày nào, nhưng bằng một cách lạ kỳ, tôi thấy ánh vàng lung linh nơi đáy mắt em trước cả khi nhận ra hai đầu thuốc lá đã dần cháy rụi.
Có lẽ tôi và em giống nhau. Cả hai đều cầm trong tay những điều không lành mạnh, nhưng lại cố gắng làm cho nó trở nên dịu dàng, dễ thở hơn trong tay nhau. Một điếu thuốc chẳng cứu được ai, nhưng cái cách em châm thuốc cho tôi và giữ im lặng cạnh tôi đã cứu tôi khỏi cảm giác không ai cần mình nữa. Tận sâu trong lòng mình, tôi cảm ơn phước phần đã cho tôi được gặp em.
Tình cảm giữa tôi và em không bắt đầu từ một câu tỏ tình, mà có lẽ từ một điếu thuốc cháy chung.
Lửa đã bùng lên giữa hai kẻ tưởng chừng đã nguội lạnh lòng tin.
—
Tôi có một tật xấu khó bỏ. Ấy là chiếm hữu. Ngày xưa, tôi như con nhím xù lông đe dọa bất cứ ai dám đến gần Tả Hàng, bây giờ… chẳng khác là bao. Nếu có, hẳn là tôi đã trưởng thành hơn, đã biết nhe nanh nhe vuốt đúng người, đúng thời điểm, chứ chẳng bạ đâu dọa đấy như thời còn con nít ngỗ nghịch.
Tôi không thích chia sẻ anh với ai. Một cái nhìn quá lâu của người khác cũng khiến lòng tôi khó chịu. Một cuộc trò chuyện hơi riêng tư thôi cũng đủ khiến tôi mất kiên nhẫn. Tôi từng nghĩ đó là yêu; kiểu yêu mãnh liệt, sâu sắc, không chấp nhận sự hiện diện của bất kỳ người thứ ba nào dù chỉ trong ánh mắt. Nhưng thật ra, đó là ích kỷ, là nỗi sợ mất anh được bọc dưới cái tên tình yêu cho bớt xấu xí đi.
Tôi từng xem Tả Hàng là lãnh địa riêng của mình, lãnh địa mà tôi dựng nên hàng rào vô hình, chỉ cho phép mình được bước vào, được tự do chạm tới từng ngóc ngách. Tôi ghen với cả những kỷ niệm anh từng có trước khi gặp tôi. Tôi ghen với những người từng gọi tên anh bằng giọng thân mật. Tôi ghen với cả những điều chưa từng tồn tại, như một kịch bản tưởng tượng nơi có ai đó bước vào đời anh, dịu dàng và đủ tốt để tôi trở thành người thừa thãi.
Đôi lúc, tôi tự khinh chính mình. Nhưng tôi không ngăn được cơn ghen đó, không kiểm soát nổi thứ cảm xúc nửa chừng giữa yêu thương và lo sợ ấy. Tôi chưa bao giờ thật sự tin rằng mình đủ tốt để được anh giữ lại. Vậy nên tôi tìm mọi cách để giữ anh lại, theo cái cách xấu xí nhất: cào cấu, rạch ròi, đánh dấu.
Chỉ sau này tôi mới dần hiểu ra, chiếm hữu không phải cách để người ta ở lại. Nó chỉ làm người ta nghẹt thở. Có một lần anh hỏi tôi: “Em có tin anh không?”. Tôi định trả lời có, nhưng cổ họng lại nghẹn lại. Tin tưởng nghĩa là buông lơi, mà tôi thì không biết cách buông lơi. Tôi không hiểu tại sao người ta có thể yêu nhau mà vẫn để cho nhau không gian riêng. Trong đầu tôi khi đó, tình yêu đồng nghĩa với việc phải thuộc về nhau hoàn toàn.
Giờ đây, tôi không còn giận dữ khi thấy anh cười với người khác. Nhưng tôi vẫn để ý. Tôi vẫn thấy một chút chua xót len vào tim mỗi lần thấy ai đó vô tình làm anh cười bằng cách mà tôi không thể. Thứ tôi làm được duy nhất là học cách không để điều đó làm rạn nứt những gì mình đang có. Không phải vì tôi hết chiếm hữu, mà vì tôi hiểu mình không thể yêu ai bằng cách trói buộc họ mãi mãi.
Ngoài ra, tôi còn một tật xấu khác, nhưng tật xấu này không phải bản tính tôi, mà là do được nuông chiều mà thành - ở bên cạnh Tả Hàng, tôi được chiều sinh kiêu. Kiêu ngạo đến mức không ai không biết tôi là ngoại lệ của anh.
Anh không phải kiểu người mềm mỏng với ai, vậy mà với tôi, anh có thể dẹp cả nguyên tắc lẫn giới hạn. Anh không cần nói, tôi vẫn biết: có những thứ anh chỉ dành cho tôi, những cử chỉ mà ngoài tôi ra, chưa ai từng được nhận. Dần dà, tôi quen với điều đó như thể nó là lẽ đương nhiên. Anh im lặng chịu đựng những lần tôi dỗi vô cớ. Anh bỏ cuộc gọi giữa chừng để trả lời tin nhắn của tôi. Anh đứng về phía tôi kể cả khi tôi sai rành rành. Tôi ở giữa thế giới này, được bảo bọc trong thứ tình cảm như thể được độc quyền, như thể tôi là trung tâm trong hệ tọa độ của anh.
Và rồi tôi kiêu ngạo đến mức không còn biết đâu là giới hạn. Tôi quên mất anh cũng là con người - có lúc mỏi mệt, có lúc cần khoảng thở. Tôi từng giận anh vì một lần anh không trả lời tin nhắn sớm. Tôi từng bỏ đi giữa đêm vì anh không nhận ra tôi thay kiểu tóc mới. Những chuyện vặt vãnh ấy, tôi biến thành cớ để thử lòng anh. Và lần nào anh cũng nhường nhịn, khiến tôi ngày một kiêu căng. Tôi không nhận ra, nhưng lòng tôi bắt đầu coi tình yêu của anh là điều hiển nhiên, như mặt trời cứ mọc mỗi sáng, như hơi ấm luôn tồn tại khi trời trở lạnh. Tôi cứ nghĩ nếu tôi rời đi, anh sẽ đuổi theo. Nếu tôi lạnh nhạt, anh sẽ sốt sắng. Tôi thử đi, thử lại, cho đến ngày anh không còn phản ứng như trước nữa. Đó là ngày tôi nhận ra mình đã đi quá xa khỏi ranh giới của một người được yêu.
Nhưng một tình yêu nếu cứ phải chứng minh bằng những lần hờn dỗi, thì chẳng chóng thì chầy cũng kiệt sức.
Tả Hàng không rời bỏ tôi. Nhưng anh cũng không nuông chiều tôi như xưa nữa. Anh nói, một lần nhẹ như gió thoảng: “Anh muốn ở bên em, không phải ở dưới em”. Câu nói ấy, tôi vẫn nhớ như in. Từ đó, tôi học cách yêu lại anh, không phải như một đặc quyền, mà như một người đang nắm trong tay món quà quý, biết rằng nếu mình sơ sẩy, sẽ đánh mất nó mãi mãi.
Tả Hàng chưa bao giờ nói nhiều, nhưng anh luôn biết. Biết tôi ghen. Biết tôi chiếm hữu. Biết cả cái kiểu tôi giả vờ lạnh nhạt chỉ để được anh dỗ dành. Có lần, tôi lỡ miệng hỏi: “Sao anh chịu đựng được em lâu như vậy?”. Anh chỉ nhìn tôi, cười nhạt: “Vì anh biết em sẽ sợ”.
Không phải vì tôi yếu đuối, mà vì tôi yêu anh theo bản năng sinh tồn, yêu như thể nếu mất anh, tôi sẽ mất luôn cả khả năng tin rằng mình đáng được yêu. Anh hiểu điều đó, nên anh luôn ôn tồn, luôn kiên nhẫn đồng hành bên tôi. Trong lúc tôi dùng những trò trẻ con để thử lòng anh, anh lại dùng sự im lặng để yêu tôi theo cách trưởng thành nhất.
Tả Hàng không cần phải sở hữu ai, cũng không cần được tung hô. Anh yêu như người ta chăm bẵm vun đắp một khu vườn; ngày ngày lặng lẽ, không cần ai biết, không mong ai công nhận, chỉ mong cây cối không vì mình tưới nước sai giờ mà héo rũ. Và tôi lúc ấy còn quá non nớt lại ngỡ mình là mặt trời của khu vườn ấy. Tôi rực rỡ, tôi ấm áp, và tôi nghĩ anh không thể sống thiếu tôi.
Nhưng có một điều tôi quên mất: mặt trời không bao giờ chạy theo bất kỳ ai cả.
Góc nhìn của Tả Hàng có lẽ sẽ chẳng bao giờ là lời trách móc. Nhưng nếu được nói, hẳn anh sẽ kể như vầy:
“Tôi đã từng yêu em như người ta yêu thứ gì quý giá đến mức sợ chạm mạnh tay sẽ làm vỡ. Tôi để em vùng vẫy, để em nổi giận, để em dựng tường chắn mọi thứ quanh em lại, chỉ để yên tâm rằng tôi là người duy nhất bước vào được. Em dùng sự dữ dội để che giấu nỗi bất an, còn tôi thì dùng sự điềm tĩnh để níu giữ em lại.”.
Có lúc tôi tự hỏi chính mình liệu tình yêu này là thứ tôi đang bảo vệ, hay là xiềng xích chính tôi đang đeo vào cổ?
—
Là lỗi của tôi vì đã kéo em vào thứ tình cảm sai trái này. Đáng lẽ ra em không cần phải chịu khổ vì tôi nhiều như thế.
Tôi là tội đồ, một kẻ không xứng đáng để em hi sinh thân mình.
Lẽ ra tôi phải kiên quyết hơn. Phải giữ khoảng cách, phải biết giới hạn. Phải là người lớn hơn trong mối quan hệ này. Nhưng không, tôi đã yếu lòng. Tôi đã để cho những khoảnh khắc gần gũi giữa chúng tôi trở thành thói quen. Tôi quen với việc được em nhìn bằng đôi mắt dịu dàng đến đau lòng. Quen với việc em im lặng ngồi cạnh tôi vào những đêm dài không có trăng. Quen cả việc em vội vã lau đi giọt nước mắt tôi chưa kịp nhận ra mình đã rơi.
Em không nói em yêu tôi ngay từ đầu. Nhưng tôi biết. Tôi biết từ rất lâu. Tôi đã thấy nó, cảm nhận được nó trong từng cái chạm tình cờ, từng lần em lén nhìn tôi rồi vội quay đi. Tôi biết, và tôi đã giả vờ không biết. Tôi đã tận hưởng tình cảm đó như một kẻ khát nước nuốt trọn cơn mưa, nhưng lại không muốn chịu ướt.
Tôi ích kỷ. Tôi hèn nhát. Tôi cứ nghĩ rằng miễn tôi không thừa nhận, miễn tôi không cho em một lời hứa thì tôi vô tội. Nhưng thực ra, tôi đã gieo hy vọng từng chút một bằng cách ở lại, bằng cách không từ chối, bằng cách cho phép em chăm sóc tôi như thể điều đó là lẽ đương nhiên.
“Em yêu anh”.
Nghe lời thừa nhận của em, tôi vừa khấp khởi hân hoan, vừa hụt hẫng như mất đà sảy chân. Tôi mừng vì em bộc bạch rằng với em, tôi không chỉ là một người bạn thâm giao, song tôi buồn vì kể từ giây phút đó trở đi, chúng tôi không thể làm bạn được nữa.
Tình cảm của em quá đỗi lớn lao, đến nỗi trở thành gánh nặng đè lên đôi vai tôi.
Tôi không thể đáp lại lời yêu của em bây giờ.
“Vẫn chưa đến lúc” - tôi tự nhủ, thầm bao biện cho lời từ chối của mình.
Tôi đã chuẩn bị sẵn trong đầu hàng vạn lời từ chối, nhưng khi em thực sự nói ra, khi giọng em run lên như thể chính em cũng đang phạm tội, tất cả những lời lẽ khôn ngoan đều biến mất. Tôi đứng đó, tay siết chặt, lòng rối như tơ vò. Lời yêu của em không như mũi dao đục khoét tim tôi, mà là một cái ôm siết chặt đến nỗi nghẹt thở. Tôi chợt nhận ra, một cách tự bản thân thấy bẽ bàng, ngay khoảnh khắc em thổ lộ là lúc chúng tôi đánh mất tất cả. Chúng tôi không thể quay lại làm bạn, vì tình yêu không có đường lùi. Mọi sự thân mật giữa chúng tôi từ nay sẽ mang một ý nghĩa khác. Mỗi lần tôi nhìn em, chạm vào em, sẽ là một lần nhắc em nhớ tôi không thể yêu em, nhưng không phải lúc này.
Và có thể là không bao giờ.
Tôi sợ. Không phải sợ tình yêu của em, mà sợ chính bản thân mình. Tôi sợ nếu tôi đáp lại, tôi sẽ kéo em vào một hố sâu không đáy.
Cuộc đời tôi là một mê cung ngập bóng tối, là những sai lầm chưa thể tha thứ, là tương lai mịt mù mà tôi không dám lôi kéo ai vào. Em xứng đáng với điều gì đó tốt đẹp hơn tôi. Với một người có thể yêu em mà không khiến em tổn thương.
Chúng tôi không nói thêm lời nào. Không ai biết phải tiếp tục câu chuyện ra sao khi tất cả đã phơi bày. Không còn khoảng lặng nào đủ dài để trốn tránh sự thật. Em quay lưng đi, từng bước như dẫm lên mảnh kính vỡ. Tôi đứng nhìn theo, tim co thắt lại. Tôi muốn gọi em lại, muốn ôm em vào lòng, muốn xin em tha thứ vì đã để tình cảm đi xa đến mức không thể cứu vãn. Nhưng tôi không cất nổi lời. Lưng em run lên từng nhịp. Em không khóc thành tiếng, nhưng tôi biết em đang khóc – và từng giọt nước mắt đó chính là bằng chứng cho việc tôi đã phá hủy thứ tình cảm trong trẻo nhất đời mình.
Tôi thường tự hỏi lòng mình rằng, giá như tôi từ chối sớm hơn, giá như tôi giữ khoảng cách từ đầu… thì liệu em có bớt đau không?
Nhưng lại một lần nữa, tôi lẩn tránh câu trả lời.
Tôi không thể nói lời yêu, không thể nắm tay em, cũng không thể dập tắt tình cảm ấy hoàn toàn. Vậy tôi là ai ngoài một kẻ nhu nhược mang danh nghĩa "vì em" để chối bỏ em?
Em đau vì yêu tôi. Còn tôi… đau vì không đủ dũng cảm để yêu em.
Chúng tôi chẳng ai có lỗi, nhưng cả hai đều chịu tội.
Trái tim em tan nát, cõi lòng tôi chênh vênh.
Chúng tôi đều bị thứ tình cảm này đâm cho rỉ máu.
—
Quả đất đến là tròn, quanh đi quẩn lại, hai lần tôi chủ động dùng thuốc lá đều là vì anh.
Lần đầu tiên tôi hút thuốc là vào năm mười bảy tuổi, cái năm vừa đủ ngu ngốc để tưởng mình đã lớn, và cũng vừa đủ đau khổ để thử mọi cách làm mình bớt đau. Tôi không phải kiểu người "ngầu" để phì phèo một điếu thuốc cho có điệu mà chỉ là một đứa dở hơi, đứng trước cổng nhà anh, tay run lẩy bẩy, bật lửa quẹt mãi không cháy. Tôi nhớ hôm đó trời mưa, anh không về, điện thoại không gọi được, tôi đứng dưới tàng cây như một con chó hoang bị bỏ rơi, và điếu thuốc là thứ duy nhất tôi có thể kiểm soát được lúc ấy.
Tôi đã hút cạn ba điếu đầu đời trong cơn tê dại. Khói xộc lên mũi, mắt tôi cay xè, họng đau như cháy. Nhưng lòng lại dịu lại một chút, vì mỗi lần ho sặc, tôi lại thôi nghĩ đến anh. Cũng có thể là do đau ở một chỗ khác rồi, nên nỗi đau trong tim tạm thời lùi bước.
Lần thứ hai, tôi hút lại là sau khi anh biến mất khỏi cuộc đời tôi một lần nữa. Lúc đó tôi đã tưởng mình ổn rồi. Đã đi qua quãng tuổi trẻ trầy trật. Đã học được cách yêu người khác. Đã có công việc, có bạn bè, có một người bên cạnh tưởng như đủ để tôi dứt ra khỏi quá khứ. Ấy vậy mà chỉ một tin nhắn, một cuộc gặp mặt tình cờ, một ánh nhìn chưa kịp chạm đã khiến tôi ngã nhào trở lại.
Và thế là tôi lại tìm đến thuốc lá, như một người tái nghiện tìm về góc tối quen thuộc. Lần này không phải vì đau, mà vì bất lực. Bất lực với chính mình. Hóa ra tôi chưa từng quên anh.
Anh là thói quen tôi không thể từ bỏ, là cơn nghiện tôi luôn lén nuôi trong lòng, dù biết rõ một ngày nào đó nó sẽ giết chết mình. Có những người mà bạn phải tránh xa để sống sót, nhưng lại cứ muốn bước gần thêm chỉ để được đau thêm lần nữa.
Tôi đã học cách từ bỏ nhiều thứ trong đời. Đã bỏ thuốc một lần vì sức khỏe. Bỏ rượu vì dạ dày. Bỏ những cơn nghiện lén lút, những tật xấu âm ỉ. Tôi đã học cách sống sạch sẽ, tử tế, không phiền đến ai. Nhưng riêng anh... tôi không sao bỏ được. Dù mỗi lần nhớ đến anh là một lần lòng tôi rỗng hoác, tim tôi nghẹt lại, và bản thân tôi nát bươm.
Tôi gọi tên anh trong đầu mỗi khi buồn, mỗi khi vui, mỗi khi tưởng như sắp bắt đầu một cuộc sống mới. Giống như cái cách người ta ngậm điếu thuốc chưa châm lửa, không phải để hút, mà để nhắc bản thân: mình từng có một vết thương như thế, từng sống sót qua nó, từng nghĩ mình không thể sống thiếu nó.
Và quả thật, tôi vẫn chưa sống được nếu thiếu anh. Không phải vì anh quá hoàn hảo; ngược lại, anh đầy vết xước. Anh xa cách, lặng lẽ, lúc gần lúc xa, không bao giờ cho tôi một câu trả lời rõ ràng. Nhưng chính vì thế, tôi mới mê mẩn anh. Anh như một bí ẩn tôi không giải mã được, một lối đi tôi đã lạc vào và chẳng thể tìm đường ra.
Đời này dạy tôi cai bỏ nhiều thứ. Cai thuốc. Cai rượu. Cai nghiện. Cai anh.
Tiếc thay, dù bị bắt bỏ đi bao lần chăng nữa, tôi vẫn không thể ngừng mê đắm anh.
Một anh dịu dàng mà xa xăm. Một anh khiếm khuyết mà trần trụi.
Và tôi như kẻ si tình bệnh hoạn, cứ mãi vươn tay về phía ngọn lửa dù đã nhiều lần bị rụi thiêu.
—
- Chào anh. - Hắn chậm rãi mở lời, rút ra một điếu thuốc lá từ trong bao.
- Tôi tên Đặng Giai Hâm.
- Cho hỏi… anh có bật lửa không?
Nhận xét
Đăng nhận xét